luatvienan@vienan.vn | 028 7300 6876 - 097 2757676
Thời gian làm việc: Sáng: 08:00 - 12:00 - Chiều: 13:30 - 17:30

BẢN ÁN 533/2023/LĐ-ST NGÀY 18/04/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Trang chủ / Kiến thức pháp luật / Bình luận khoa học / BẢN ÁN 533/2023/LĐ-ST NGÀY 18/04/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Editor 28 Tháng Tư 2025

BẢN ÁN 533/2023/LĐ-ST NGÀY 18/04/2023 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

1. Tóm tắt nội dung bản án

Ngày 18/04/2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm vụ án lao động giữa nguyên đơn ông Nguyễn Xuân L và bị đơn là Công ty G (một nhà thầu nước ngoài có văn phòng điều hành tại Việt Nam), về việc tranh chấp liên quan đến hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Ông L ký hợp đồng lao động thời hạn một năm với Công ty G từ ngày 26/3/2021 đến ngày 25/3/2022 với vị trí kỹ sư HSE và mức lương 30.000.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, vào ngày 31/7/2021, ông nhận được thông báo qua email về việc Công ty sẽ chấm dứt hợp đồng lao động từ ngày 29/8/2021, với lý do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Sau đó, ông chính thức nhận được Quyết định số 16/2021/QĐ về việc chấm dứt hợp đồng vào ngày 10/9/2021.

Ông L khởi kiện, yêu cầu hủy quyết định này, buộc công ty nhận trở lại làm việc, bồi thường hai tháng tiền lương, các khoản lương chưa thanh toán, tiền bảo hiểm và chi phí đại diện ủy quyền, tổng cộng là 521.640.000 đồng. Sau đó, tại phiên tòa, ông rút một phần yêu cầu và chỉ còn yêu cầu các khoản tương ứng đến thời điểm hết hạn hợp đồng (25/3/2022), tổng cộng 358.000.000 đồng.

Phía Công ty G phản đối toàn bộ yêu cầu khởi kiện, cho rằng việc đơn phương chấm dứt hợp đồng là hợp pháp vì lý do bất khả kháng do dịch bệnh Covid-19 và đã tuân thủ đúng thời hạn báo trước.

2. Đánh giá, nhận xét cá nhân của tác giả

Bản án 533/2023/LĐ-ST cho thấy Hội đồng xét xử đã đánh giá thấu đáo, toàn diện cả về khía cạnh pháp lý lẫn hoàn cảnh thực tế. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 lan rộng và Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt theo Chỉ thị 16, việc thi công tại công trường – nơi ông L làm việc – buộc phải tạm dừng. Tòa nhận định rõ rằng: "Toàn bộ người dân sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh đang trong tâm điểm của dịch bệnh, không thể có các biện pháp khắc phục cũng như sắp xếp được công việc khác cho người lao động" (trích bản án).

Căn cứ vào các chỉ thị phòng chống dịch, giấy phép hoạt động của nhà thầu nước ngoài, và vị trí đặc thù của nguyên đơn (kỹ sư HSE tại công trình thi công), Tòa kết luận bị đơn không có lỗi chủ quan trong việc không bố trí công việc khác cho ông L. Đồng thời, việc thông báo chấm dứt hợp đồng từ ngày 31/7/2021 cho đến ngày 29/8/2021 đã bảo đảm thời hạn báo trước 30 ngày theo đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019.

Tòa chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, đó là buộc công ty phải trả 2 ngày lương còn thiếu tương đương 2.462.000 đồng. Các yêu cầu còn lại như hủy quyết định chấm dứt hợp đồng, bồi thường 2 tháng lương, tiền bảo hiểm và phí ủy quyền đều bị bác bỏ. Phán quyết này cho thấy sự nghiêm túc của Tòa trong việc xác định rõ yếu tố “bất khả kháng” theo luật và bảo vệ quyền lợi hợp lý cho cả hai bên.

3. Bài học pháp lý rút ra

Từ vụ án này, có thể rút ra một số bài học quan trọng về pháp lý trong quan hệ lao động:

Một là, dịch bệnh Covid-19 có thể được xem là tình huống bất khả kháng, đủ điều kiện để người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo điểm c khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019. Tuy nhiên, vẫn phải thực hiện đầy đủ thủ tục báo trước theo quy định pháp luật.

Hai là, việc thông báo trước bằng hình thức thư điện tử được xem là hợp lệ nếu có nội dung rõ ràng, đầy đủ và được thực hiện đúng thời hạn, như trường hợp Công ty G gửi thông báo qua email từ ngày 31/7/2021 để chấm dứt hợp đồng vào ngày 29/8/2021.

Ba là, người lao động cần nắm rõ quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, cũng như trong các trường hợp bị chấm dứt hợp đồng để tránh hiểu lầm hoặc khởi kiện không có căn cứ. Trong vụ án này, việc ông L cho rằng “Công ty lợi dụng tình hình dịch bệnh” đã bị bác bỏ vì hoàn cảnh khách quan đã được chứng minh là bất khả kháng và không phải do lỗi của bị đơn.

Bốn là, chi phí ủy quyền giải quyết tranh chấp không đương nhiên được xem là khoản bồi thường hợp pháp, nếu không có cơ sở pháp lý cụ thể hoặc không thuộc trách nhiệm của bên sử dụng lao động.

4. Kết luận

Bản án 533/2023/LĐ-ST là minh chứng điển hình về việc áp dụng linh hoạt và hợp lý các quy định của pháp luật lao động trong bối cảnh đặc biệt như đại dịch Covid-19. Quyết định của Tòa đã thể hiện rõ sự công bằng, khách quan khi xem xét đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cả người lao động và người sử dụng lao động.

Trong khi bảo vệ nguyên tắc pháp lý về đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp pháp, Tòa đồng thời thể hiện sự nhân văn khi vẫn chấp nhận phần yêu cầu có căn cứ của nguyên đơn. Vụ án là lời nhắc nhở tới các doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm quy trình pháp lý khi thực hiện các quyết định nhân sự, và người lao động cũng cần có cái nhìn thực tế, chuẩn xác để bảo vệ quyền lợi một cách đúng luật và hợp lý./. (LS. Lê Thị Bích Chi, Công ty Luật Viên An).

Nguồn: Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2023), Bản án 533/2023/LĐ-ST ngày 18/04/2023 về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

*Lưu ý:

- Bài viết này được biên soạn nhằm mục đích cung cấp thông tin tham khảo chung về các quy định pháp luật hiện hành;

- Một số điều khoản pháp luật được đề cập có thể đã được sửa đổi, bổ sung hoặc hết hiệu lực tại thời điểm bạn tiếp cận thông tin;

- Để đảm bảo quyền lợi và có được tư vấn phù hợp với tình huống cụ thể, bạn vui lòng liên hệ với đội ngũ luật sư của Công ty Luật Viên An hoặc gọi ngay đến số gọi số: 097.275.7676 để được hỗ trợ chi tiết và chính xác nhất.