Trong xã hội pháp quyền hiện đại, quyền dân sự của cá nhân và pháp nhân là nền tảng cho việc bảo đảm tự do, bình đẳng và công bằng. Tuy nhiên, cũng như mọi quyền khác, quyền dân sự không phải là tuyệt đối. Pháp luật Việt Nam quy định rõ những giới hạn trong việc thực hiện quyền dân sự nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cũng như trật tự, đạo đức xã hội.
1. Cơ sở pháp lý về quyền dân sự
Theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015), việc xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự phải bảo đảm các nguyên tắc như tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; bình đẳng; thiện chí, trung thực; không được lạm dụng quyền dân sự để xâm phạm lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Quy định này tạo cơ sở định hướng cho việc xác lập các giới hạn pháp lý đối với quyền dân sự.
Điều 3 BLDS 2015 cũng quy định rõ: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự hiện hành.
2. Các giới hạn cụ thể đối với việc thực hiện quyền dân sự
Thứ nhất, giới hạn do quyền và lợi ích hợp pháp của người khác: Việc thực hiện quyền dân sự không được làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền nhân thân, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp khác của người khác. Ví dụ, một người có quyền sử dụng đất nhưng không thể dựng công trình gây chắn lối đi hợp pháp của hàng xóm, vì điều đó xâm phạm đến quyền sử dụng đất của người khác (Điều 174 BLDS 2015 về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng).
Thứ hai, giới hạn bởi lợi ích công cộng: Nhà nước có quyền hạn chế hoặc điều chỉnh việc thực hiện một số quyền dân sự để phục vụ lợi ích quốc gia, an ninh, quốc phòng, y tế hoặc các nhu cầu công cộng khác. Chẳng hạn, trong các trường hợp khẩn cấp như thiên tai, dịch bệnh, cơ quan nhà nước có thể áp dụng các biện pháp hạn chế quyền tự do cư trú, đi lại hoặc buộc di dời tài sản (Điều 171 BLDS 2015 về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản trong trường hợp xảy ra tình thế cấp thiết).
Thứ ba, giới hạn bởi trật tự công cộng và đạo đức xã hội: Điều 123 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu nếu "mục đích và nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội". Ví dụ, hợp đồng thuê nhà để sử dụng vào mục đích làm nơi tổ chức cờ bạc là trái đạo đức xã hội và bị coi là vô hiệu.
Thứ tư, giới hạn do bản thân chủ thể: Một số chủ thể bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự (theo các quy định từ Điều 20 đến Điều 24 BLDS 2015) thì việc thực hiện quyền dân sự cũng bị giới hạn. Ví dụ, người mất năng lực hành vi dân sự không thể tự mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản lớn mà phải thông qua người giám hộ.
3. Nguyên tắc không được lạm dụng quyền dân sự
Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015 quy định rõ: “Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình để gây thiệt hại cho người khác hoặc cản trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của người khác.” Đây là một giới hạn đặc biệt, mang tính định hướng nhằm tránh tình trạng sử dụng pháp luật một cách tiêu cực. Chẳng hạn, hành vi đòi nợ đúng pháp luật nhưng thực hiện bằng biện pháp đe dọa, bôi nhọ trên mạng xã hội lại là sự lạm dụng quyền, và có thể bị xử lý theo pháp luật hành chính hoặc hình sự.
4. Tác động thực tiễn và đề xuất
Trong thực tiễn xét xử và giải quyết tranh chấp dân sự, nhiều trường hợp bên có quyền đã thực hiện hành vi vượt quá giới hạn pháp luật cho phép, dẫn đến tranh chấp và thiệt hại cho bên còn lại. Do đó, các chủ thể cần được phổ biến kiến thức pháp luật để hiểu rằng, việc thực hiện quyền dân sự phải luôn trong khuôn khổ luật định và phù hợp với các giá trị đạo đức xã hội.
Đồng thời, các cơ quan nhà nước cần tăng cường hướng dẫn, kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm giới hạn thực hiện quyền dân sự. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các điều khoản trên của BLDS 2015 cũng là điều cần thiết, nhằm bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong xã hội pháp quyền./. (LS. Đinh Thị Tuyết, Công ty Luật Viên An).
Nguồn: Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015, Hà Nội.
*Lưu ý:
- Bài viết này được biên soạn nhằm mục đích cung cấp thông tin tham khảo chung về các quy định pháp luật hiện hành;
- Một số điều khoản pháp luật được đề cập có thể đã được sửa đổi, bổ sung hoặc hết hiệu lực tại thời điểm bạn tiếp cận thông tin;
- Để đảm bảo quyền lợi và có được tư vấn phù hợp với tình huống cụ thể, bạn vui lòng liên hệ với đội ngũ luật sư của Công ty Luật Viên An hoặc gọi ngay đến số gọi số: 097.275.7676 để được hỗ trợ chi tiết và chính xác nhất.
16 Tháng Sáu 2025
16 Tháng Sáu 2025
13 Tháng Sáu 2025